Tín dụng chính sách xã hội góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Thứ năm, 17/4/2025, 11:18 (GMT+7)
Thực hiện chủ trương của Chính phủ và với sự chỉ đạo triển khai của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh, những năm qua, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã tạo động lực giúp hàng trăm phụ nữ trên địa bàn tỉnh mạnh dạn khởi nghiệp và phát triển kinh tế ổn định, hiệu quả, góp phần tích cực cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình...
Sau hơn 8 năm triển khai thực hiện Quyết định số 939/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 - 2025” (Quyết định số 939/QĐ-TTg), tính đến ngày 31/12/2024, tổng nguồn vốn ngân sách tỉnh ủy thác qua NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh để thực hiện chương trình cho vay phụ nữ khởi nghiệp đạt 91,315 tỉ đồng với 247 lượt dự án được vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh, với tổng số tiền lũy kế đã giải ngân đạt 182,278 tỉ đồng. Các dự án phụ nữ khởi nghiệp làm chủ đã góp phần tạo việc làm cho 1.056 lao động tại địa phương (trong đó có 781 lao động nữ); 70% số dự án được vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh có mức tăng trưởng lợi nhuận tăng từ 3 - 5 lần so với khi chưa được hỗ trợ từ Đề án.
Các sản phẩm của phụ nữ khởi nghiệp Bắc Ninh được trưng bày giới thiệu tới người tiêu dùng (Nguồn ảnh: Báo Bắc Ninh)
1. Thực trạng triển khai Chương trình cho vay Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2020 - 2024 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Để triển khai Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 - 2025” của Chính phủ, UBND tỉnh Bắc Ninh đã ban hành Quyết định số 530/QĐ-UBND ngày 06/10/2017 về việc phê duyệt kế hoạch thực hiện Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 - 2025” trên địa bàn tỉnh; trong đó, giao trách nhiệm cho Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh là cơ quan chủ trì, phối hợp với các ngành, đơn vị liên quan và UBND các huyện/ thành phố tổ chức triển khai thực hiện bảo đảm hiệu quả.
UBND tỉnh Bắc Ninh cũng đã trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số 105/NQ-HĐND ngày 17/4/2018; Nghị quyết số 75/NQ-HĐND ngày 08/12/2021 về việc thông qua chủ trương sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH để cho vay đối với phụ nữ khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh. Ngày 11/7/2018, UBND tỉnh Bắc Ninh cũng đã ban hành Quyết định số 365/QĐ-UBND phê duyệt Đề án cho vay đối với phụ nữ khởi nghiệp từ vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH. Tiếp đó, ngày 10/02/2022, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 69/QĐ-UBND về việc sửa đổi Phương án quản lý và sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH để cho vay đối với phụ nữ khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Tăng cường nguồn vốn để cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp
Giai đoạn 2018 - 2024, UBND tỉnh Bắc Ninh phê duyệt chính sách riêng cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, cụ thể, mỗi ý tưởng/dự án được vay vốn thời hạn tối đa là 5 năm, với mức lãi suất ưu đãi 5%/năm (bằng xấp xỉ 0,42%/tháng). Phê duyệt tổng số nguồn vốn trích từ ngân sách tỉnh ủy thác qua NHCSXH được ghi cho nhiệm vụ thực hiện Đề án 939 là 90 tỉ đồng, đến ngày 31/12/2023 UBND tỉnh đã chuyển nguốn vốn ủy thác sang NHCSXH để cho vay chương trình phụ nữ khởi nghiệp đủ số tiền là 90 tỉ đồng; dư nợ đến 31/12/2024 là 91,315 tỉ đồng (trong đó 1,315 tỉ đồng là số lãi nhập gốc). (Bảng 1)
Bảng 1: Nguồn vốn cho vay phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2018 - 2024
Nguồn: Báo cáo NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh năm 2018 - 2024
Để quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương, NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã chủ động phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh, huyện, tích cực, tập trung thực hiện tốt công tác tuyên truyền, rà soát, lựa chọn Dự án khởi nghiệp đúng đối tượng, đủ điều kiện theo quy định để hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ xin vay; tiến hành thẩm định dự án xin vay vốn, xác định mức vay, thời hạn cho vay phù hợp với từng dự án, phương án sản xuất kinh doanh; hướng dẫn khách hàng hoàn chỉnh hồ sơ thủ tục và giải ngân nhanh chóng, kịp thời đáp ứng nhu cầu vay vốn của đối tượng thụ hưởng.
Bảng 2: Kết quả cho vay phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2020 - 2024
Nguồn: Báo cáo chi nhánh NHCSXH Bắc Ninh năm 2020 - 2024
Tổng doanh số cho vay phụ nữ khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2020 - 2024 đạt 122.460 triệu đồng với 147 khách hàng được vay vốn, doanh số thu nợ là 93.197 triệu đồng. Tổng dư nợ cho vay phụ nữ khởi nghiệp đến ngày 31/12/2024 là 91.311 triệu đồng, với 115 khách hàng còn dư nợ. Nguồn vốn ngân sách ủy thác qua NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh để cho vay được quản lý chặt chẽ, đảm bảo đúng quy định.
Bảng 3: Kết quả cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2020 - 2024
Nguồn: Báo cáo NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh năm 2020 - 2024
Từ nguồn vốn trên, các cấp Hội đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn hội viên, phụ nữ cách thức xây dựng ý tưởng/dự án kinh doanh. Tính đến tháng 12/2024, tỉnh Bắc Ninh đã tiếp nhận 902 ý tưởng phụ nữ khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp; 100% ý tưởng đã tiếp nhận được hỗ trợ, giúp đỡ theo nhu cầu, cụ thể dưới các hình thức như hỗ trợ vay vốn ưu đãi từ nguồn phụ nữ khởi nghiệp của tỉnh, tập huấn kiến thức, liên kết hoạt động sản xuất - tiêu thụ sản phẩm, tiếp cận chính sách hỗ trợ nông nghiệp của tỉnh…
Về công tác triển khai tín dụng
Đến ngày 31/12/2024, 100% dư nợ chương trình cho vay phụ nữ khởi nghiệp tại NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đều là dư nợ trong hạn, chưa có phát sinh nợ quá hạn. Tỉ lệ thu nợ/nợ đến hạn tại thời điểm cuối mỗi tháng, quý, năm đều đạt 100% phản ánh khách hàng vay vốn tại NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đều tuân thủ nghiêm túc việc trả lãi, trả nợ gốc. NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã phối hợp chặt chẽ với Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp, UBND các xã, phường, thị trấn trong công tác kiểm tra sử dụng vốn vay, có các giải pháp hỗ trợ khách hàng vay vốn phát triển dự án, sử dụng vốn vay có hiệu quả, thực hiện tốt công tác thông báo, động viên, đôn đốc nợ đến hạn, nợ quá hạn phát sinh, cùng với ý thức trách nhiệm cao của khách hàng.
Về cơ bản, các khách hàng vay vốn đều chấp hành tốt việc trả lãi hàng tháng. Lãi tồn chương trình cho vay phụ nữ khởi nghiệp là 229,339 triệu đồng, trong đó khách hàng có lãi tồn trên 3 tháng là 3 khách hàng với số tiền lãi tồn là 62,394 triệu đồng, do khách hàng gặp khó khăn tạm thời, chậm lãi 1 hoặc 2 tháng. 100% người vay chấp hành trả nợ phân kỳ, nợ gốc đúng hạn.
Về mức độ hài lòng, thỏa mãn của khách hàng, qua kết quả khảo sát 400 người tham gia đều cho thấy, đa số các ý kiến đều đánh giá các quy định hiện nay của chương trình cho vay phụ nữ khởi nghiệp tại NHCSXH về lãi suất, mức cho vay tối đa, thời gian cho vay tối đa, phương thức cho vay trực tiếp không ủy thác một số nội dung qua các tổ chức chính trị - xã hội là phù hợp, đáp ứng được nhu cầu của người dân trên địa bàn.
2. Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng chính sách xã hội gắn với việc cho vay hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Chương trình cho vay phụ nữ khởi nghiệp đã thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nói chung, tỉnh Bắc Ninh nói riêng, trong việc ban hành các chính sách ưu đãi nhằm hỗ trợ cho phụ nữ có cơ hội và điều kiện phát triển kinh tế, thành lập doanh nghiệp, mở rộng sản xuất kinh doanh..., trên cơ sở những ý tưởng khởi nghiệp và nhu cầu kinh doanh của phụ nữ.
Chương trình cho vay phụ nữ khởi nghiệp triển khai qua NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh đã giúp hàng trăm gia đình mạnh dạn khởi nghiệp phát triển kinh tế ổn định, nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong gần 05 năm qua, Chương trình đã giúp 147 khách hàng là cá nhân phụ nữ, hộ kinh doanh, doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ được vay vốn, tạo việc làm thường xuyên, ổn định cho gần 1.000 lao động. Tất cả các dự án cho vay đều sử dụng vốn đúng mục đích, các dự án phát huy tốt hiệu quả, khách hàng sau khi vay vốn đều chấp hành tốt việc trả nợ gốc, trả lãi và các quy định của Chi nhánh.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Chương trình cho vay hỗ trợ phụ nữ khời nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh thời gian qua vẫn còn một số nội dung chưa đạt tiến độ theo mục tiêu đề ra như: Nguồn vốn cho vay còn thấp, còn hạn chế trong việc đáp ứng nhu cầu vay vốn khởi nghiệp trên địa bàn; tỉ lệ hội viên phụ nữ nâng cao về nhận thức về khởi nghiệp chưa cao, chưa mạnh dạn khởi nghiệp; một số dự án chưa phát huy hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn vay…
3. Một số giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng "Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp" trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh thời gian tới
Một là, đối với NHCSXH Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh
Tiếp tục phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh và các sở, ban, ngành liên quan tham mưu cho HĐND, UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo chủ trương sử dụng nguồn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH để cho vay Chương trình hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân trên địa bàn Bắc Ninh.
Tích cực tuyên truyền, tập huấn cho cán bộ Hội phụ nữ các cấp và Hội viên phụ nữ về chủ trương, chính sách ưu đãi của tỉnh đối với phụ nữ có ý tưởng kinh doanh mạnh dạn khởi nghiệp phát triển kinh tế, tạo việc làm ở địa phương; nhân rộng mô hình điển hình tiên tiến, vinh danh, khen thưởng các tập thể, cá nhân phụ nữ có ý tưởng hay, thiết thực và khởi nghiệp thành công mang lại hiệu quả kinh tế gia đình và xã hội, làm cơ sở để các chị em phụ nữ khác mạnh dạn triển khai và lan tỏa thành phong trào phát triển mạnh mẽ.
Thực hiện tốt công tác tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng, nhất là các nội dung như: nghiệp vụ liên quan đến kỹ năng thuyết trình, tập huấn cho cán bộ tổ chức chính trị - xã hội, Ban quản lý tổ TK&VV; kỹ năng thẩm định hồ sơ vay vốn, cách đọc hiểu phương án tính toán giá thành đối với các dự án; cung cấp, triển khai kịp thời, đầy đủ các văn bản pháp luật hiện hành liên quan đến bảo đảm tiền vay và liên quan đến chương trình cho vay phụ nữ khởi nghiệp để cán bộ nắm bắt, cập nhật và triển khai thực hiện theo đúng quy định. Khuyến khích, động viên và tạo điều kiện cho cán bộ, người lao động tại đơn vị, nhất là cán bộ tín dụng tích cực tự học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ, hiểu biết về pháp luật để đáp ứng tốt yêu cầu thực hiện nhiệm vụ.
Hai là, đối với Hội, đoàn thể các cấp
Đối với Hội, đoàn thể cấp tỉnh, huyện: Tích cực tuyên truyền đến các chị em hội viên về chính sách của Nhà nước về khởi nghiệp, phát triển kinh doanh theo Quyết định số 939/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 365/QĐ-UBND của UBND tỉnh về phê duyệt phương án cho vay đối với phụ nữ khởi nghiệp từ nguồn ngân sách địa phương. Việc tuyên truyền được thực hiện đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau để đảm bảo mang lại hiệu quả thiết thực như: Tuyên truyền qua các buổi họp các cấp hội; tuyên truyền thông qua phương tiện truyền thanh, truyền hình; tuyên truyền trên cổng thông tin điện tử của chính quyền địa phương, của hội; tuyên truyền thông qua các buổi sinh hoạt tổ, nhóm, câu lạc bộ và các mô hình hoạt động khác của Hội Phụ nữ…
Đối với Hội, đoàn thể cấp xã: Chủ động thực hiện việc giám sát trước, trong và kiểm tra sau cho vay, đặc biệt là việc giám sát, thẩm định trước khi cho vay đảm bảo người vay có đủ điều kiện vay vốn, có phương án sản xuất, kinh doanh hiệu quả. Tăng cường công tác tuyên truyền cho hộ vay về ý thức trả nợ “có vay, có trả” và phải tự giác trả lãi hằng tháng, trả nợ phân kỳ theo sự thỏa thuận với ngân hàng và ý thức tiết kiệm của hộ vay để tạo vốn trả dần nợ vay.
Ba là, đối với khách hàng vay vốn
Cần nhận thức rõ trách nhiệm trả lãi và nợ gốc, hiểu rõ đây là chính sách cho vay với lãi suất ưu đãi để phát triển sản xuất, kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thiết yếu, nâng cao chất lượng cuộc sống, không phải khoản trợ cấp, cho không của Nhà nước. Khi vay vốn phải có kế hoạch sản xuất, kinh doanh cụ thể để đảm bảo nguồn vốn sử dụng đúng mục đích, sinh lời, tránh trường hợp vay vốn về chưa có kế hoạch sản xuất và sử dụng vào việc khác không sinh lợi dẫn đến không có khả năng trả lãi hằng tháng và trả nợ khi đến hạn.
Hoạt động cho vay của ngân hàng Việt Nam trước ảnh hưởng của thị trường tập trung
Thứ ba, 15/4/2025, 13:34 (GMT+7)
Tóm tắt: Nghiên cứu phân tích tác động của cấu trúc thị trường tập trung đến khả năng mở rộng cho vay của ngân hàng thương mại (NHTM). Cho tới nay, hướng nghiên cứu về mối quan hệ giữa thị trường tập trung và hoạt động cho vay trong thị trường ngân hàng Việt Nam chưa được nghiên cứu nhiều.
1. Giới thiệu
Hoạt động cho vay là mảng kinh doanh chính của ngân hàng và theo đó, tăng trưởng cho vay ngân hàng là cơ sở để các ngân hàng vận hành và phát triển.
Có nhiều sự quan tâm đến việc tìm hiểu điều gì giải thích sự khác biệt trong khả năng cung ứng tín dụng. Theo đó, một yếu tố quyết định chính đáng và quan trọng của những điều kiện này là mức độ cạnh tranh cơ bản ở một thị trường nhất định. Một mặt, khi sự cạnh tranh trên thị trường tiền gửi giảm, có thể nói, sức mạnh thị trường của ngân hàng trên thị trường tiền gửi tăng lên. Và điều này sẽ kéo theo lãi suất huy động giảm, đồng nghĩa với việc giá vốn giảm, lợi nhuận của ngân hàng tăng lên, động cơ giảm lãi suất đầu ra của ngân hàng tăng lên. Mặt khác, khi cạnh tranh trên thị trường cho vay ngân hàng giảm, sức mạnh thị trường của các ngân hàng trên thị trường cho vay tăng lên, có nghĩa là chi phí tài chính mà người đi vay phải đối mặt sẽ tăng lên (Boyd và De Nicoló, 2005).
Hầu hết các nghiên cứu liên quan đến thị trường ngân hàng Việt Nam là về hiệu quả cạnh tranh của ngân hàng, giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, mối quan hệ cạnh tranh - rủi ro, mối quan hệ cạnh tranh - lợi nhuận, hay tương quan cạnh tranh - sự mất khả năng thanh toán. Trong khi đó, chưa có nghiên cứu nào về mối quan hệ giữa tập trung thị trường và hoạt động cho vay trên thị trường ngân hàng Việt Nam thông qua khảo sát thực nghiệm tác động của tập trung thị trường và tăng trưởng cho vay.
2. Cơ sở lí luận và các tài liệu nghiên cứu có liên quan
Cấu trúc thị trường ảnh hưởng đến cạnh tranh và tính tập trung thị trường của các ngân hàng, từ đó, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Mức độ cạnh tranh ngân hàng và mối liên hệ của nó với sự tập trung thị trường là trái ngược nhau. Nếu chúng ta chấp nhận một số đề xuất lí thuyết phổ biến, thì một thị trường tập trung hơn có nghĩa là mức độ cạnh tranh thấp hơn do các ngân hàng thực thi quyền lực thị trường.
Khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận tín dụng của các ngành sản xuất của nền kinh tế quốc gia. Về vấn đề này, một số lập luận đã được nhấn mạnh trong các nghiên cứu hiện có. Nhóm đầu tiên cho rằng, khả năng cung cấp tín dụng được tăng cường trong môi trường ngân hàng ít cạnh tranh hơn (Petersen và Rajan, 1995). Nhóm này nhấn mạnh, các ngân hàng với sức mạnh thị trường tạo ra những mối quan hệ thể hiện ở việc sẵn sàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ. Về bản chất, một hệ thống ngân hàng ít cạnh tranh hơn sẽ thúc đẩy tích lũy vốn bằng cách chuyển các nguồn lực kinh tế để hỗ trợ hoạt động kinh doanh. Các tác giả khác theo dõi sự đóng góp của hệ thống ngân hàng dựa trên tích lũy vốn để tạo ra một môi trường ngân hàng cạnh tranh hơn. Họ nhấn mạnh rằng, trong một thị trường hiệu quả khuyến khích các ngân hàng ra vào tự do, các khoản tín dụng được chuyển đến các lĩnh vực sản xuất với chi phí rẻ hơn.
Tóm lại, các nghiên cứu hiện có đã đưa ra bằng chứng rất hạn chế về tác động của cấu trúc thị trường ngân hàng đối với hoạt động cho vay và cho thấy những khoảng trống nghiên cứu cần được bổ sung.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Mô hình tăng trưởng cho vay
Nghiên cứu tiến hành hồi quy biến đại diện hoạt động cho vay của ngân hàng trên các thước đo cấu trúc thị trường ngân hàng, kiểm soát các yếu tố liên quan ở cả cấp độ ngân hàng và nền kinh tế:
CHOVAYi,t= α0 + α1 × CHOVAYi,t-1 + α2 × TTTTi,t + α3 × KSi,t-1 + εi,t
Trong đó i và t lần lượt là ngân hàng và năm. Biến phụ thuộc CHOVAYi,t đo lường sự thay đổi hằng năm của tổng cho vay khách hàng của ngân hàng so với mức tổng cho vay khách hàng trong năm trước. TTTTi,t là các biến tập trung thị trường. KSi,t- bao gồm các biến kiểm soát và εi,t là sai số của mô hình. Theo đó, tập hợp các biến kiểm soát đặc điểm của ngân hàng bao gồm hệ số vốn chủ sở hữu, quy mô ngân hàng, hệ số tài sản có tính thanh khoản cao và tỉ lệ huy động tiền gửi.
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay Hệ số vốn
Các ngân hàng dự kiến sẽ được vốn hóa đầy đủ. Điều này ngụ ý rằng họ phải có đủ tài sản có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt để đáp ứng các nghĩa vụ ngắn hạn và dài hạn. Vốn hóa ngân hàng có mối quan hệ tích cực với hành vi cho vay của các NHTM, vì khi đảm bảo nguồn vốn thì các ngân hàng sẽ có nền tảng để phát triển kinh doanh (Carlson và cộng sự, 2013). Hệ số vốn chủ sở hữu được đo lường bằng tỉ lệ tổng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản.
Quy mô ngân hàng
Quy mô ngân hàng là cơ sở đo lường cho tổng nguồn lực sẵn có của ngân hàng để cho vay. Kashyap và Stein (2000) lập luận rằng, quy mô ngân hàng được đo bằng tổng tài sản là một trong những yếu tố chính quyết định hoạt động kinh doanh và cho vay của NHTM. Các ngân hàng lớn có lợi thế trong việc cung cấp nhiều loại dịch vụ tài chính cho khách hàng của họ vì họ có khả năng huy động nhiều tiền hơn. Do đó, có thể có một mối quan hệ tích cực giữa giá trị của quy mô ngân hàng và mức cho vay của ngân hàng vì cơ sở tài sản của ngân hàng càng lớn thì bảng cân đối kế toán của ngân hàng có thể đáp ứng càng nhiều khoản vay. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng các ngân hàng nhỏ có lợi thế trong một số thị trường kinh doanh nhờ vào cơ cấu tổ chức của họ (Udell, 1989). Quy mô ngân hàng được đo lường bằng logarit tự nhiên của tổng tài sản.
Tài sản thanh khoản cao
Lí thuyết cho thấy các ngân hàng kém thanh khoản sẽ cắt giảm tín dụng nhiều hơn vì họ có thể gặp nhiều khó khăn hơn trong việc bù lỗ khi cho vay. Tuy nhiên, mức độ thanh khoản cao cũng có thể cho phép ngân hàng rút tiền từ quỹ thanh khoản của chính mình thay vì dựa vào thị trường (Ratnovski, 2009). Hệ số tài sản có tính thanh khoản cao được đo lường bằng tỉ trọng tiền mặt và chứng khoán so với tổng tài sản.
Huy động tiền gửi
Hoạt động cho vay chỉ có thể thực hiện được nếu các ngân hàng có thể huy động đủ tiền từ khách hàng của họ. Vì các NHTM phụ thuộc vào tiền của người gửi tiền như một nguồn vốn chính, điều đó có nghĩa là có một số mối quan hệ giữa khả năng huy động tiền gửi của ngân hàng và lượng tín dụng cấp cho khách hàng. Khi tổng tiền gửi tăng thì tổng tiền cam kết cho vay và tiền cho vay tăng theo tỉ lệ thuận (Acharya và Naqvi, 2012). Sự gia tăng tiền gửi của một ngân hàng có thể cải thiện khả năng cho khách hàng vay nhiều hơn. Cho vay và tiền gửi tương quan đồng biến vì tăng trưởng tiền gửi nhanh hơn báo hiệu nhu cầu cho vay ngày càng tăng. Tỉ lệ huy động tiền gửi được tính theo tỉ lệ trên danh mục nguồn vốn.
3.3. Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2021 làm giai đoạn mẫu. Giá trị ngoại lai và giá trị quan sát bị thiếu có thể có ảnh hưởng không mong muốn đến ước lượng hồi quy. Do đó, trước khi chạy mô hình hồi quy, thống kê đơn biến hiển thị tóm tắt về giá trị cực đại, cực tiểu và giá trị thiếu được tính toán. Kết quả cho thấy, không có giá trị nào bị thiếu có khả năng làm giảm chất lượng của bảng dữ liệu, nhưng dữ liệu cho một số biến có giá trị tiêu cực. Do đó, để giảm độ lệch tiềm ẩn do các ngoại lai gây ra, nghiên cứu thông qua việc thay thế các giá trị trên cùng và dưới cùng bằng giá trị ở phân vị thứ 5 và 95 tương ứng, đối với các biến cấp độ ngân hàng. Bảng 1 trình bày các chỉ số thống kê mô tả.
Bảng 1: Các chỉ số thống kê mô tả
4. Kết quả và thảo luận
4.1. Kết quả
Để ước tính các mô hình, nghiên cứu sử dụng các kĩ thuật dữ liệu bảng động vì cho vay của ngân hàng có thể bị ảnh hưởng bởi các giá trị trong quá khứ của nó. Mô hình dữ liệu bảng động được ước tính bằng cách sử dụng GMM hai bước hệ thống để tạo ra các ước tính hiệu quả hơn so với sử dụng GMM một bước. Phù hợp với kì vọng, phép thử Hansen để kiểm tra tính hợp lệ của bộ công cụ chỉ ra rằng, không thể bác bỏ giả thuyết rằng các hạn chế xác định quá mức là hợp lệ ở mức 5%, cho thấy các công cụ là phù hợp. Nghiên cứu cũng thực hiện kiểm định Arellano-Bond để phát hiện tự tương quan bậc nhất và tự tương quan bậc hai trong phần dư. Kết quả cho thấy rằng, như kì vọng, thống kê bậc một có ý nghĩa thống kê ở mức 10% hoặc cao hơn, trong khi thống kê bậc hai không có ý nghĩa thống kê. Do không có tự tương quan bậc hai trong tất cả các thông số kĩ thuật của GMM, vì vậy, hợp lí khi đề xuất rằng các công cụ ước tính là nhất quán.
Bảng 2 trình bày kết quả thực nghiệm về tác động của tập trung đến tăng trưởng cho vay. Như kết quả hồi quy cho thấy, nghiên cứu thu được hệ số dương và có ý nghĩa đối với biến CR5. Kết quả này chỉ ra rằng, trong những năm khảo sát, tồn tại tác động cùng chiều của tập trung thị trường đối với số lượng các khoản vay được cấp bởi những ngân hàng trung bình. Tác động tích cực này của tập trung thị trường ngân hàng cũng có ý nghĩa kinh tế. Cụ thể, sự gia tăng 1% trong CR5 sẽ làm tăng tỉ lệ tăng trưởng hằng năm các khoản cho vay của ngân hàng lên 308,683%. Kết quả này là phù hợp khi mà độ lệch chuẩn của biến CR5 là 0,052 và trung bình của tăng trưởng cho vay là 27,579%. Các kết quả hồi quy là rất vững, khi sử dụng biến thay thế là tổng thị phần 3 ngân hàng lớn nhất hay biến CR3.
Tiếp theo, khi giá trị của thang đo HHI càng cao cho thấy mức độ tập trung của ngân hàng càng cao, hệ số dương trên thang đo ngụ ý mối quan hệ tích cực giữa mức độ tập trung của ngân hàng và thước đo tăng trưởng cho vay ngân hàng. Kết quả này cho thấy, mức độ tập trung của ngân hàng làm tăng tốc độ tăng trưởng cho vay. Tác động này của tập trung thị trường ngân hàng cũng đảm bảo ý nghĩa kinh tế.
Ngoài ra, trong bối cảnh các ngân hàng có vốn hóa tốt, mà khẩu vị rủi ro thấp hơn, họ có xu hướng thể hiện hành vi thận trọng hơn trong các quyết định đầu tư, từ đó, vốn chủ sở hữu ngân hàng sẽ ảnh hưởng ngược chiều đến việc mở rộng cho vay. Vốn ngân hàng được xem như nhân tố xác định động cơ quản lí, nghĩa là bộ đệm vốn lớn có thể khiến ngân hàng thực hiện các chiến lược kinh doanh thận trọng bằng cách giảm các hành vi có rủi ro, điển hình như cho vay (VanHoose, 2007). (Bảng 2)
4.2. Thảo luận
Kết quả hồi quy phân tích mối quan hệ giữa cấu trúc thị trường và tăng trưởng cho vay là rất vững và nhất quán, cho thấy thị trường càng tập trung và ngân hàng có sức mạnh thị trường càng cao thì tăng trưởng cho vay càng lớn hơn. Kết quả này phù hợp với lập luận về mối quan hệ cùng chiều giữa sức mạnh thị trường của ngân hàng và cung cấp tín dụng với việc ngân hàng dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn thay thế. Nếu các ngân hàng có sức mạnh thị trường cao hơn có khả năng tiếp cận thị trường tài chính nhiều hơn và trong điều kiện tốt hơn, họ có thể phòng ngừa tổn thất trong hoạt động cho vay thông qua việc sử dụng tiền từ các nguồn khác. Do đó, họ sẽ không cần phải giảm lượng tín dụng cho vay, mà trái lại, có thể tăng cho vay.
Đầu tư của ngân hàng và tính thanh khoản đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm từ lâu. Các ngân hàng có thể đủ khả năng nắm giữ tài sản thanh khoản ít hơn khi họ đã cải thiện khả năng tiếp cận với cả thị trường vốn bán lẻ và bán buôn. Trong đó, phải kể đến chi phí cơ hội do nắm giữ tài sản lưu động có năng suất thấp gây ra, khi mà những chi phí như vậy tăng nhiều hơn trong các thị trường ngân hàng cạnh tranh và do đó, các ngân hàng đầu tư nhiều hơn vào các tài sản rủi ro. Theo đó, các ngân hàng chi phối trên thị trường tập trung nắm giữ ít tài sản có tính thanh khoản cao hơn và do đó, các ngân hàng đầu tư nhiều hơn vào các tài sản có rủi ro nhưng sinh lời cao, như các khoản cho vay.
5. Kết luận và hàm ý chính sách
Bài viết này sử dụng mô hình kinh tế lượng dạng bảng động để khám phá tác động của tập trung ngân hàng đối với khía cạnh tăng trưởng cho vay. Các biến kiểm soát phù hợp được sử dụng. Độ trễ của các biến giải thích được sử dụng linh hoạt để giảm thiểu nội sinh, dựa trên kì vọng là cấu trúc thị trường không phát huy ảnh hưởng tức thì lên ngân hàng. Kết quả của nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, tác động chung của tập trung thị trường là rất quan trọng đối với hoạt động cho vay của ngân hàng. Mức độ tập trung thị trường càng cao, sức mạnh thị trường của ngân hàng tăng lên, được quan sát là có tác động tích cực và làm gia tăng tăng trưởng cho vay của ngân hàng.
Những phát hiện của nghiên cứu chỉ ra rằng, tập trung nhiều hơn dẫn đến cải thiện khả năng cho vay. Do đó, nên khuyến khích việc sáp nhập và mua lại các ngân hàng vừa và nhỏ để hiện thực hóa một hệ thống tài chính hợp nhất hơn. Việc sáp nhập các ngân hàng cần được xem xét vì nó có khả năng đem lại hiệu ứng tích cực đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng khác trong hệ thống. Các cơ quan quản lí nhà nước cần xây dựng một khung khổ pháp lí chung đối với hoạt động sáp nhập nhằm đảm bảo hiệu quả của việc sáp nhập ngân hàng.
Đề xuất dán nhãn sản phẩm công nghệ do AI tạo ra
Thứ ba, 25/3/2025, 11:18 (GMT+7)
Sáng 25/3, đại biểu Quốc hội chuyên trách cho ý kiến dự án Luật Công nghiệp công nghệ số. Bên cạnh việc dán nhãn nhận diện, dự luật cũng quy định Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Danh mục sản phẩm công nghệ số tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo phải có dấu hiệu nhận dạng, đồng thời quy định về quy cách dấu hiệu nhận dạng.
Cơ quan thẩm tra là Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho rằng mục tiêu của quy định là tạo ra dấu hiệu nhằm giúp người dùng nhận biết sản phẩm của AI để ứng xử phù hợp. Bộ quản lý chuyên ngành cần đảm bảo quy trình dán nhãn không phát sinh thủ tục hành chính, giảm gánh nặng cho doanh nghiệp, người dân.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy. Ảnh: Media Quốc hội
Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho rằng pháp luật hiện hành của nhiều quốc gia có quy định quyền sở hữu trí tuệ chỉ thuộc về cá nhân và tổ chức. AI được coi là công cụ chứ không phải chủ sở hữu. Tương tự, luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam quy định tác giả chỉ có thể là cá nhân (con người) và phải trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm, sáng chế chứ không phải thông qua trí tuệ nhân tạo. Do đó, về nội dung này, Ủy ban cho biết thực hiện theo Luật Sở hữu trí tuệ.
Đảm bảo AI không vượt tầm kiểm soát con người
Theo dự luật, việc phát triển, cung cấp, triển khai và sử dụng trí tuệ nhân tạo phải phục vụ sự thịnh vượng và hạnh phúc của con người, lấy con người làm trung tâm, nâng cao năng suất, hiệu quả công việc, thúc đẩy thông minh hóa.
Ngoài ra, việc sử dụng AI phải đảm bảo công bằng và không phân biệt đối xử, tôn trọng giá trị đạo đức và bảo vệ quyền riêng tư. Cơ quan quản lý phải giữ khả năng kiểm soát thuật toán, mô hình, bảo đảm không vượt qua tầm kiểm soát của con người, quy định an ninh và bảo mật. Từ đó, Bộ, ngành căn cứ vào tình hình thực tế để xây dựng ban hành hướng dẫn quy tắc đạo đức cho việc triển khai, sử dụng AI trong lĩnh vực phụ trách.
Quy hoạch 'đường cao tốc' truyền dẫn 5G Việt Nam
Thứ sáu, 4/4/2025, 11:27 (GMT+7)
Bộ Khoa học và Công nghệ quy hoạch phân kênh tần số vô tuyến điện, tạo nền tảng cho hạ tầng truyền dẫn tốc độ siêu cao, góp phần phát triển 5G.
Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành thông tin quy hoạch phân kênh cho băng tần 71-76 GHz và 81-86 GHz, áp dụng đối với tổ chức, cá nhân tham gia quản lý, sử dụng tần số, cũng như sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh thiết bị vô tuyến điện tại Việt Nam.
Theo Cục Tần số vô tuyến điện, đây là bước đi quan trọng nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý cho sử dụng băng tần E tại Việt Nam, tạo nền tảng triển khai hạ tầng truyền dẫn tốc độ siêu cao - thành phần thiết yếu để phát triển mạng 5G trên toàn quốc.
"Sự ra đời của quy hoạch này sẽ góp phần xây dựng 'đường cao tốc' vững chắc cho hạ tầng viễn thông thế hệ mới của Việt Nam", đại diện Cục nói.
Người dùng trải nghiệm mạng di động 5G tại Thái Nguyên. Ảnh: Trọng Đạt
Trong chỉ thị ngày 14/3, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai giải pháp nhằm đảm bảo tỷ lệ phủ sóng mạng 5G đạt 50% số lượng trạm 4G hiện nay. Thủ tướng coi đây là nền tảng hạ tầng công nghệ để hỗ trợ chuyển đổi số và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Nghị quyết 193 của Quốc hội, ban hành tháng 2, cho phép thí điểm một số chính sách, cơ chế đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, trong đó dành một khoản ngân sách hỗ trợ 5G. Tính đến ngày 31/12, doanh nghiệp viễn thông triển khai hạ tầng mạng 5G đạt tối thiểu 20.000 trạm phát sóng đưa vào sử dụng sẽ được hỗ trợ 15% chi phí thiết bị.
Ra mắt nền tảng về sản phẩm công nghệ Make in Viet Nam
Thứ tư, 9/4/2025, 14:51 (GMT+7)
Bộ Khoa học và Công nghệ ra mắt Cổng thông tin tiếp nhận và công bố các sản phẩm, giải pháp khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, sáng 9/4.
Cổng thông tin là kênh chính thức của Bộ Khoa học và Công nghệ để tiếp nhận, đánh giá, lựa chọn và công khai những sản phẩm, giải pháp công nghệ, chuyển đổi số đã được triển khai, ứng dụng thành công trong thực tế tại Việt Nam. Các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân có thể đăng ký, gửi đề xuất, sau đó theo dõi kết quả phản hồi trực tuyến, không cần thủ tục giấy tờ.
Quá trình xét duyệt được Bộ công khai, tạo điều kiện để cộng đồng tiếp cận, tìm hiểu về các sản phẩm, giải pháp Make in Viet Nam có giá trị.
Cổng thông tin tiếp nhận và công bố các sản phẩm, giải pháp khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Ảnh: Lưu Quý
Tại lễ khai trương, ông Phạm Đức Long, Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ, đánh giá nền tảng không chỉ là công cụ hỗ trợ quá trình chuyển đổi số, mà còn là cầu nối giữa sáng kiến công nghệ với chính sách phát triển, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Phạm Đức Long. Ảnh: Bộ KH&CN
Cổng thông tin hiện công bố 71 sản phẩm và giải pháp công nghệ số, thuộc nhiều lĩnh vực như công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, tài nguyên môi trường, giao thông vận tải, bưu chính, logistics, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, tài chính, ngân hàng, thương mại, dịch vụ...
Sau 24 giờ kể từ khi mở cổng, đã có 100 sản phẩm, giải pháp Make in Viet Nam đề xuất đăng ký. Sau khi xem xét tính hợp lệ, Bộ đang tiếp nhận 60 sản phẩm, giải pháp để tiếp tục xử lý trước khi công bố.
ChatGPT thêm khả năng tạo ảnh 'như thật'
Thứ tư, 26/3/2025, 16:54 (GMT+7)
OpenAI tích hợp chức năng Images in ChatGPT, cho phép người dùng tạo ảnh trực tiếp trong chatbot thông qua sức mạnh của mô hình GPT-4o.
Ngày 26/3, OpenAI cho biết bản phát hành ban đầu của Images in ChatGPT chỉ yếu tập trung vào tạo hình ảnh và người dùng gói đăng ký Plus, Pro, Team hay bản miễn phí đều có thể sử dụng. Trước đó, ChatGPT cho tạo ảnh nhưng thông qua mô hình Dall-E bị giới hạn tính năng và chỉ cho phép tạo ba ảnh miễn phí mỗi ngày.
Ảnh "Nhà khoa học Isaac Newton cầm lăng kính ở Công viên Quảng trường Washington" do ChatGPT tạo. Ảnh: OpenAI
The Verge dẫn lời người phát ngôn OpenAI Taya Christianson rằng bản miễn phí sẽ giới hạn tính năng, nhưng vẫn vượt trội Dall-E.
"Tính năng mới có bước tiến vượt bậc so với mô hình trước đó", trưởng nhóm nghiên cứu Gabriel Goh cho hay, thêm rằng đội ngũ của ông đã sử dụng nền tảng đa phương thức GPT-4o, một trong những mô hình ngôn ngữ lớn mạnh nhất của OpenAI, cho khả năng tạo ảnh của ChatGPT.
Trình tạo ảnh trên ChatGPT cũng được cải thiện về hiển thị văn bản trong hình ảnh, giúp tạo văn bản mạch lạc hơn và không bị "bóp méo". Theo Goh, đây cũng là thách thức đáng kể, vì nếu các tiêu đề hoặc thành phần văn bản có lỗi, toàn bộ hình ảnh không sử dụng được.
Trong demo tính năng mới, OpenAI trình bày một số ví dụ cho thấy khả năng tạo ảnh của ChatGPT liền mạch, như sơ đồ khoa học thí nghiệm lăng kính Newton với các thành phần màu được dán nhãn chính xác; truyện tranh nhiều khung với các nhân vật và bong bóng lời thoại nhất quán; hay hình nền trong suốt cho nhãn dán, logo và thực đơn nhà hàng.
Ảnh sơ đồ thí nghiệm lăng kính Newton do ChatGPT tạo. Ảnh: OpenAI
Về nguy cơ tạo ảnh giả mạo, khỏa thân..., Shannon cho biết Images in ChatGPT có tính năng bảo vệ mạnh, ngăn chặn nội dung deepfake khiêu dâm và từ chối các yêu cầu "mang tính lừa đảo", nhưng không đề cập chi tiết. Hình ảnh được tạo cũng tích hợp siêu dữ liệu chuẩn C2PA để đánh dấu là do AI tạo ra, có thể tra cứu bằng công cụ để phát hiện.
"Tất nhiên, không có hệ thống nào hoàn hảo, nhưng chúng tôi liên tục cải thiện biện pháp bảo vệ của mình", Shannon nói thêm.
CEO OpenAI: Lập trình viên phải học dùng AI hoặc mất việc
Chủ nhật, 23/3/2025, 12:20 (GMT+7)
Giám đốc điều hành OpenAI Sam Altman ước tính AI đang thực hiện tới 50% công việc lập trình trong một số công ty khiến nhu cầu lập trình viên giảm mạnh.
Trong cuộc phỏng vấn với Stratechery, Sam Altman dành nhiều thời gian để nói về sự chuyển dịch nhu cầu tuyển dụng lập trình viên trong thời gian tới. Ông nhấn mạnh học cách làm việc với AI sẽ là chìa khóa để duy trì sự phù hợp của con người trong bối cảnh ngành công nghệ đang thay đổi nhanh chóng.
Người đứng đầu OpenAI so sánh việc nghiên cứu dùng thành thạo công cụ AI ngày nay với việc học các kỹ năng lập trình khi ông còn trẻ. "Giống như khi tôi tốt nghiệp trung học phổ thông, điều hiển nhiên là phải thực sự giỏi lập trình. Và bây giờ là phiên bản mới của điều đó. Điều hiển nhiên hiện tại là phải thực sự giỏi sử dụng các công cụ AI", Altman nói. Ông tin rằng đây là điểm mấu chốt mang lại lợi thế lâu dài cho người làm khi mọi thứ đang chuyển dịch xa hơn theo hướng tự động hóa.
CEO OpenAI Sam Altman. Ảnh: CNN
Ý tưởng AI dần thay thế các lập trình viên nhận được sự đồng tình của nhiều lãnh đạo trong ngành. Dario Amodei, CEO của Anthropic, gần đây dự đoán rằng AI có thể tạo ra tới 90% các đoạn mã thông dụng trong vòng sáu tháng tới. Giám đốc sản phẩm của OpenAI, Kevin Weil, cũng cho rằng vào cuối năm nay, AI có thể vượt trội con người trong việc lập trình.
Giám đốc điều hành OpenAI nói kỹ sư phần mềm hiện vẫn được săn đón nhưng nhu cầu nhân sự này trong thời gian tới chắc chắn giảm khi AI có năng lực lớn hơn. "Mỗi lập trình viên có thể làm được nhiều việc hơn, nhưng theo thời gian, chúng ta có thể cần ít người như họ hơn", ông nói.
Altman nói lập trình viên bị thay thế bởi AI sẽ không xảy ra đột ngột mà sẽ tăng tốc dần dần. Ông mô tả đây là quá trình bắt đầu chậm, ảnh hưởng đến những khu vực nhỏ nhưng cuối cùng sẽ lan rộng khắp các ngành nghề.